Thị giác luôn là giác quan hàng đầu giúp chúng ta nhận thức thế giới xung quanh để phục vụ cho các nhu cầu vui chơi giải trí và làm việc. Tuy nhiên, càng lớn tuổi thì các vấn đề về mắt sẽ xuất hiện càng nhiều, đặc biệt đối với người mắc bệnh đái tháo đường thì những nguy cơ bệnh lý nhãn khoa sẽ còn cao hơn bình thường gấp nhiều lần, điều trị khó khăn tốn kém và để lại không ít di chứng về sau. Do vậy kiểm tra mắt định kỳ với bệnh nhân tiểu đường là việc làm hết sức quan trọng.
Tầm quan trọng của việc kiểm tra mắt định kỳ với bệnh nhân tiểu đường là như thế nào?
Trước tiên bệnh nhân tiểu đường cần nhận biết được tầm quan trọng và thực hiện nghiêm chế độ khám mắt định kỳ là như thế nào và họ phải đối diện với những nguy cơ bệnh mắt gì để họ chủ động trong việc thăm khám và phòng ngừa bệnh. Theo nghiên cứu, bệnh nhân tiểu đường thường gặp phải những bệnh về mắt như Đục thủy tinh thể, Glôcôm (Cườm nước, thiên đầu thống), Phù hoàng điểm và bệnh võng mạc không tăng sinh, Bệnh võng mạc tăng sinh đây là những bệnh lý về mắt gây nhiều biến chứng nguy hiểm cho người mắc bệnh.
“Người tiểu đường thường phải đối diện với những nguy cơ bệnh mắt nào?”
1. Đục thủy tinh thể
Đục thủy tinh thể (hay còn gọi là cườm khô), là một bệnh mắt thường gặp nhất ở người tiểu đường. Thủy tinh thể là một thấu kính tự nhiên của cơ thể, luôn trong suốt và góp phần tạo nên môi trường quang học cho mắt. Ở người tiểu đường do khi đường huyết tăng cao, một phần glucose chuyển thành đường sorbitol, loại đường này tích tụ ở mắt khiến protein bị lắng cặn ở phần trung tâm thủy tinh thể (đục nhân) khiến người bệnh có cảm giác như có là sương mờ trước mặt và thị lực giảm nhanh chóng.
Đối với bệnh này việc phẫu thuật làm phương pháp được lựa chọn hàng đầu và gần như là duy nhất. Ca mổ thủy tinh thể được diễn ra nhanh chóng, chỉ có một số ít biến chứng tuy nhiên có khoảng 20-40% bệnh nhân mờ mắt tái phát, ngoài ra đối với bệnh nhân đến muộn thì việc phẫu thuật sẽ không thể đạt được hiệu quả như mong muốn.
2. Glôcôm (cườm nước, thiên đầu thống)
Glôcôm là bệnh lý được đặc trưng bởi tình trạng thủy dịch trong mắt dẫn lưu kém làm tăng áp lực lên mắt. Nguy cơ mắc bệnh này ở người đái tháo đường cao hơn người bình thường khoảng 40%. Người bệnh càng lâu năm thì khả năng biến chứng xảy ra càng cao. Khi áp lực đủ lớn, nó sẽ làm tổn thương các tế bào võng mạc và thần kinh thị giác khiến tầm nhìn của người bệnh ĐTĐ giảm dần. Các triệu chứng dễ nhận thấy của Glôcôm bao gồm: đau mắt, nhức đầu, chảy nước mắt, mờ mắt, buồn nôn, nhìn thấy quầng sáng trước mắt… Đáng lưu ý hơn là một số trường hợp nhãn áp tăng chậm, người bệnh “thích nghi tốt” với nhãn áp nên không xuất hiện các triệu chứng trên nhưng đến giai đoạn muộn khi tế bào võng mạc và thần kinh thị giác tổn thương nhiều thì thị lực sẽ bị mất hoàn toàn.
Việc điều trị hạ nhãn áp trong glôcôm có nhiều cách chủ yếu nhất là các dòng thuốc nhỏ mắt hạ nhãn áp. Khi dùng thuốc không thể đạt được hiệu quả mong muốn thì người ta sẽ dùng đến Laser hoặc Phẫu thuật để tạo một đường rò trên mắt giúp thủy dịch lưu thông được dễ dàng hơn.
3. Phù hoàng điểm và bệnh võng mạc không tăng sinh
Võng mạc là một lớp màng mỏng nằm sâu ở đáy của nhãn cầu, nó chứa rất nhiều mạch máu nhỏ (vi mạch), dây thần kinh, có chức năng thu nhận và dẫn truyền tín hiệu ánh sáng. Trung tâm của võng mạc là “hoàng điểm”, thông tin sau khi được hoàng điểm thu nhận sẽ được gửi đến dây thần kinh thị giác rồi dẫn truyền lên não bộ giúp bạn có thể nhìn thấy mọi vật.
Ở người tiểu đường các mao mạch ở đáy mắt bị giãn tạo thành những túi nhỏ gây tắc mạch và làm tổn thương chức năng của từng vùng mà mạch máu đó chi phối. Bệnh võng mạc không tăng sinh có thể trải qua 3 giai đoạn (nhẹ, trung bình, và nặng) trong đó càng ngày càng có nhiều mạch máu mới bị tắc nghẽn.
Mặc dù bệnh võng mạc không tăng sinh thường không gây mất thị lực ở giai đoạn này, nhưng việc mạch máu bị giãn sẽ dẫn đến tuần hoàn tại mắt bị rối loạn. Thành mạch máu có thể bị mất khả năng chống rò rỉ và dịch sẽ đi từ mạch máu vào võng mạc, nếu không may, chất rò rỉ đi vào vùng Hoàng điểm thì sẽ gây ra tình trạng “Phù hoàng điểm”, triệu chứng của bệnh này là nhìn hình méo mó, thị lực giảm rất nhanh hoặc có thể mất hoàn toàn.
4. Bệnh võng mạc tăng sinh
Ở một số người, bệnh võng mạc do đái tháo đường sẽ tiến triển sang giai đoạn tăng sinh. Trong hình thái này, các mạch máu bị tắc nghẽn rất nhiều, để bù trừ, cơ thể sẽ tạo ra những mạch máu mới (tân mạch) trên võng mạc, các tân mạch này thường không có chức năng và khá mỏng manh. Khi mạch máu mới vỡ, máu sẽ tràn ra che lấp đường nhìn và dẫn đến giảm thị lực. Các tân mạch cũng có thể tạo thành xơ sẹo ở võng mạc. Sự co kéo của mô sẹo có thể làm biến dạng võng mạc hoặc gây ra bong võng mạc.
Võng mạc có thể bị tổn hại nặng trước khi bạn cảm thấy thay đổi thị lực. Hầu hết những người bị bệnh võng mạc không tăng sinh thường không có nhiều triệu chứng. Ngay cả với bệnh võng mạc tăng sinh, đôi khi người bệnh cũng chỉ có triệu chứng ở giai đoạn muộn. Do vậy, việc kiểm tra mắt thường xuyên (khoảng 6-12 tháng một lần) ở bệnh nhân tiểu đường là cần thiết. Đặc biệt, phụ nữ bị đái tháo đường khi mang thai nên khám mắt sớm và kiểm tra mắt trong suốt thai kỳ. Hãy đến gặp bác sĩ ngay nếu tầm nhìn của thai phụ xuất hiện các đốm đen, lóa sáng hoặc bị mờ.
Tất cả biến chứng về mắt do đái tháo đường nếu phát hiện và điều trị sớm sẽ giảm nguy cơ mất thị lực đến 95%. Bên cạnh đó, người bệnh cũng cần chủ động kiểm soát glucose huyết ở mức an toàn, uống thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ. Thường xuyên tập thể dục thể thao, duy trì chế độ ăn uống lành mạnh (ít ngọt, nhiều rau..) cũng giúp ngăn ngừa tình trạng giảm thị lực đối với các bệnh mắt do đái tháo đường.
BS. Hoàng Anh